Sẽ sửa đổi Nghị định 108/2006/NĐ-CP cho phù hợp với tình hình
12/06/2012

 

Việc ban hành Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ - CP ngày 22/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư (sau đây gọi là Nghị định 108/2006/NĐ-CP) là một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam.

 

Việc ban hành Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ - CP ngày 22/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư (sau đây gọi là Nghị định 108/2006/NĐ-CP) là một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Được thông qua và có  hiệu lực thi hành vào cùng một thời điểm với Luật Doanh nghiệp (1/7/2006), đây là đầu tiên sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam có một khung pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp được áp dụng thống nhất cho tất cả các nhà đầu tư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Những quy định của Luật Đầu tư và các điều khoản được quy định chi tiết tại Nghị định 108/2006/NĐ-CP đã mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư bằng việc xóa bỏ một loạt rào cản đầu tư không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, việc áp dụng và thực hiện Nghị định 108/2006/NĐ-CP trong thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế chủ yếu sau đây:

Một là, việc lần đầu tiên áp dụng khung pháp lý về đầu tư, kinh doanh  thống nhất cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế đã không tránh khỏi một số khó khăn nhất định. Thực tế cho thấy, do Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP chưa quy định rõ khái niệm nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp ĐTNN) nên việc xác định địa vị pháp lý (quyền, nghĩa vụ) cũng như điều kiện và thủ tục đầu tư, kinh doanh của các đối tượng này còn chưa có quan điểm thống nhất giữa các Cơ quan quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

Bên cạnh đó, việc chuyển từ chế độ quản lý một doanh nghiệp ĐTNN được thành lập trên cơ sở một dự án đầu tư sang chế độ quản lý một doanh nghiệp được tổ chức, hoạt động thống nhất trong khuôn khổ Luật Doanh nghiệp và được phép đăng ký đầu tư đồng thời với đăng ký kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau cũng làm cho việc xác định thủ tục đầu tư, kinh doanh đối với các doanh nghiệp này trở nên khó khăn và phức tạp hơn.

Hai là, Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP có hiệu lực thi hành chỉ vài tháng trước thời điểm Việt Nam gia nhập WTO và bắt đầu thực hiện lộ trình cam kết với Tổ chức này về mở cửa thị trường đầu tư trong các ngành dịch vụ cũng như các cam kết khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh. Do  tính chất phức tạp, mới mẻ của nhiều cam kết và với thời gian chuẩn bị còn hạn chế nên việc thực hiện đã không tránh khỏi một số bất cập sau đây:

- Chưa có quan điểm thống nhất về việc áp dụng cam kết đối với nhà đầu tư không thuộc quốc gia/vùng lãnh thổ là thành viên của WTO;

- Chưa có quy định cụ thể về việc áp dụng cam kết đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư đã được thành lập tại Việt Nam;

- Chưa có quy định về việc áp dụng cam kết trong trường hợp nhà đầu tư đăng ký thực hiện dự án đầu tư   nhiều mục tiêu khác nhau, nhưng lại thuộc các ngành/phân ngành dịch vụ được cam kết mở cửa với phạm  vi và mức độ không giống nhau;

- Chưa có quy định về việc áp dụng cam kết đối với các ngành/phân ngành dịch vụ "chưa cam kết" hoặc không được liệt kê trong Biểu cam kết về dịch vụ;

Ba là, ngay sau khi Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, một loạt các đạo luật chuyên ngành có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh đã được ban hành và/hoặc sửa đổi (như Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán....). Tuy nhiên, do cùng điều chỉnh hoạt động đầu tư, nhưng lại không có sự phân định rõ ràng với Luật Đầu tư về phạm vi, đối tượng áp dụng nên việc thực thi các Luật này đã không tránh khỏi trùng lặp, thậm chí xung đột với quy định của Luật Đầu tư  và Nghị định 108/2006/NĐ-CP, đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến quy trình, thủ tục thực hiện dự án đầu tư.

Bốn là, trong thời qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư đã bộc lộ một số mặt hạn chế. Không ít địa phương thực hiện nhiều giải pháp thu hút đầu tư mà không chú trọng chất lượng, hiệu qủa của dự án, không tuân thủ quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ, lại buông lỏng biện pháp kiếm tra, giám sát và thiếu chế tài ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc thực hiện dự án. Đó là một trong nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng một số dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, nhưng không được triển khai theo đúng tiến độ, gây lãng phí nguồn lực đất đai, tài nguyên thiên thiên nhiên của đất nước, làm suy giảm lòng tin của xã hội về tính hiệu qủa trong hoạt động thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp giữa cơ quan trung ương và địa phương chưa được hoàn thiện kịp thời trong bối cảnh thực hiện chế độ phân cấp cũng gây nhiều khó khăn trong hoạt động quản lý đầu tư.

Thực tế nêu trên đã và đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và nâng cao hiệu qủa, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư.

* Những nội dung chủ yếu của dự thảo Nghị định

Dự thảo Nghị định có 8 Chương, 90 điều và 4 Phụ lục kèm theo, gồm: (i) Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư; (ii) Danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư; (iii) Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài; (iv) Danh mục lĩnh vực cấm đầu tư.

Những quy định của dự thảo Nghị định được thiết kế trên cơ sở kết cấu hiện tại của Nghị định 108/2006/NĐ-CP với những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:

1. Nhóm các quy định chung:

Để tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các điều kiện đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư, dự thảo Nghị định đã sửa đổi, bổ sung các quy định sau:

- Bổ sung quy định nhằm làm rõ khái niệm, hình thức áp dụng, cơ quan ban hành các điều kiện đầu tư, trong đó có nguyên tắc áp dụng điều kiện đầu tư theo cam kết của Việt Nam với WTO và nguyên tắc áp dụng điều kiện đầu tư đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (các Điều 3, 4 và 5).

- Sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm khẳng định quyền của các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và các Bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh trong việc hợp tác với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc nước ngoài để thành lập tổ chức kinh tế mới (các Điều 10, 11 và 12).

Ngoài ra, Nghị định đã bổ sung quy định về lệ phí cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhân đầu tư để áp dụng tương tự như quy định về lệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (Điều 6).

2. Nhóm quy định về thủ tục đầu tư, kinh doanh:

Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục đầu tư, kinh doanh, dự thảo Nghị định đã được thiết kế theo hướng sau:

- Tách nội dung đăng ký kinh doanh ra khỏi Giấy chứng nhận đầu tư cấp cho nhà đầu tư trong nước và trong chừng mực có thể, áp dụng tương tự đối với nhà đầu tư nước ngoài được cấp Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (các Điều 9).

- Quy định rõ điều kiện, thủ tục góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng áp dụng yêu cầu thẩm tra điều kiện đầu tư và cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho doanh nghiệp, đồng thời thiết kế lại các quy định về chuyển nhượng vốn và chuyển nhượng dự án đầu tư (các Điều 13, 62 và 67).

- Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến thủ tục đăng ký, thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư (gồm các quy định từ các Điều từ 45 đến 52 về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký, thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầư tư); thủ tục chấm dứt dự án, tạm ngừng, giãn tiến độ thực hiện dự án, rút Giấy chứng nhận đầu tư (các Điều 69, 70); thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh trong Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Điều 56); thủ tục thay đổi trụ sở và địa điểm thực hiện dự án đầu tư (các Điều 57); thủ tục thành lập, giải thể văn phòng điều hành của Bên hợp doanh nước ngoài (Điều 61);; thủ tục thanh lý dự án đầu tư và giải thể doanh nghiệp, trong đó phân định rõ thanh lý dự án và thanh lý, giải thể doanh nghiệp, giải quyết việc thanh lý dự án/doanh nghiệp trong trường hợp nhà đầu tư không có mặt tại Việt Nam (Điều 71)

3. Nhóm các quy định về phân cấp và quản lý hoạt động của dự án đầu tư:

Nhằm khắc phục những hạn chế của chế độ phân cấp hiện hành, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của dự án đầu tư và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, dự thảo Nghị định tiếp tục duy trì quy định về phân cấp cấp Giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư nhưng hoàn thiện các quy định về vấn đề này theo hướng:

- Sửa đổi, bổ sung Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư nhằm tập trung thu hút các dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội và quy hoạch phát triển ngành (VD: các dự án xây dựng trung tâm công nghệ thông tin, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, sản xuất thiết bị bảo vệ môi trường, xử lý chất thải, vật liệu mới, công nghệ sinh học và một số dự án phục vụ an sinh xã hội….). Ngoài ra, theo Quyết định  1617/CT-TTg ngày 19/9/2011 về tăng cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương   liên quan xây dựng Đề án định hướng nâng cao hiệu qủa thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư nước ngoài giai đoạn 2011-2020, trong đó có việc đề xuất xây dựng một Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư chung (hiện đang được quy định rải rác trong một số văn bản khác nhau) để làm cơ sở áp dụng các ưu đãi về thuế, tín dụng đầu tư phát triển, sử dụng đất và các ưu đãi khác...

- Bổ sung các dự án quan trọng phải được Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận chủ trương trước khi  cấp  Giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời quy định rõ trình tự, thủ tục thẩm tra các dự án này (VD: các dự án sử dụng nhiều đất, các dự án trồng rừng có vốn đầu tư nước ngoài hoặc thực hiện tại địa bàn quan trọng về an ninh, quốc phòng; các dự án mà pháp luật chuyên ngành quy định phải trình Thủ tướng Chính phủ…).

- Bổ sung quy định về thẩm tra sự phù hợp của dự án với quy hoạch phát triển ngành; Bộ quản lý ngành chịu trách nhiệm thẩm tra vấn đề này. Cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư có thẩm tra các nội dung khác tùy thuộc mục tiêu, tính chất của dự án.

- Bổ sung quy định về nội dung Giấy chứng nhận đầu tư theo hướng xác định rõ trách nhiệm của nhà đầu tư về tiến độ thực hiện dự án đầu tư (tiến độ góp vốn, huy động vốn, tiến độ xây dựng). Trên cơ sở thỏa thuận với nhà đầu tư, Cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư có thể quy định một số nội dung khác không trái với quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan.

- Bổ sung một số điều khoản mới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu qủa thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư (gồm toàn bộ quá trình từ việc xây dựng luật pháp, chính sách đến việc thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt động của dự án đầu tư). Mặt khác, dự thảo Nghị định đã sửa đổi một số quy định nhằm củng cố, tăng cường cơ chế thực hiện chế độ báo cáo, thống kê và quản lý nhà nước đối với hoạt động xúc tiến đầu tư…

- Bổ sung cơ chế để Thủ tướng Chính phủ hoặc Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư có thể đình chỉ hoặc tạm dừng cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong một số trường hợp cần thiết (VD: cấp Giấy chứng nhận đầu tư  không phù hợp với quy hoạch, cấp sai quy định hoặc không đúng quy trình, thủ tục…).

- Bổ sung quy định mới để tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương, trong trường hợp cần thiết, có thể yêu cầu nhà đầu tư cam kết bảo đảm thực hiện dự án dưới các hình thức được pháp luật quy định (như đặt cọc, ký qũy…) nhằm đảm bảo để dự án được triển khai theo đúng điều kiện, tiến độ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư.

 

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

NB